Theo đó, Cisco cho biết đã thực hiện một cuộc nghiên cứu nhằm tìm hiểu cách thức các tổ chức, doanh nghiệp trên toàn cầu (trong đó có Việt Nam) đã chuẩn bị như thế nào trong việc duy trì vận hành khi buộc phải cho một phần hay toàn bộ cán bộ nhân viên làm việc từ xa do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Từ nghiên cứu đó, Báo cáo mang tên Tương lai làm việc từ xa an toàn (Future of Secure Remote Work Study) được Cisco công bố, chỉ ra làm việc từ xa đã trở thành xu hướng tất yếu kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát kéo theo những thách thức và bất ổn khiến nhiều quốc gia bắt buộc phải thực hiện cách ly xã hội, đóng cửa biên giới...
Cụ thể, trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra, 19% số doanh nghiệp tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có khoảng một nửa lực lượng lao động làm việc từ xa, con số tại Việt Nam là 20%. Trong đại dịch đã có 56% số doanh nghiệp tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và 51% số doanh nghiệp Việt Nam có hơn một nửa lực lượng lao động làm việc từ xa. Dự đoán sau đại dịch, 34% số doanh nghiệp tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và tại Việt Nam có hơn một nửa lực lượng lao động làm việc từ xa.
Kết quả báo cáo cho thấy các doanh nghiệp trên toàn cầu và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chưa chuẩn bị kỹ cho quá trình chuyển đổi đột ngột sang làm việc từ xa một cách an toàn. Khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát vào đầu năm 2020, 54% các doanh nghiệp tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có “phần nào” sự chuẩn bị trong khi 7% chưa hề có sự chuẩn bị cho việc hỗ trợ làm việc từ xa, tại Việt Nam, con số tương ứng là 30% và 3%.
Các doanh nghiệp đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể các mối đe dọa, cảnh báo an ninh mạng do các tác nhân độc hại cố gắng lợi dụng các lỗ hổng bảo mật tiềm ẩn khi nhân viên truy cập vào hệ thống mạng doanh nghiệp và các ứng dụng đám mây từ xa. 69% số doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương nhận thấy các mối đe dọa, cảnh báo bảo mật tăng trên 25% trong đó có 62% doanh nghiệp nhỏ, 75% doanh nghiệp vừa và 69% doanh nghiệp lớn. Tại Việt Nam, từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, 91% số doanh nghiệp chứng kiến số lượng các một đe dọa, cảnh báo bảo mật tăng trên 25%.
Bảo mật điểm cuối đặt ra thách thức cho các tổ chức, doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường từ xa do không thể tin tưởng kết nối điểm cuối với mạng văn phòng cho việc hiển thị và thúc đẩy cập nhật.
Đồng thời, nhân viên kết nối với các nguồn lực doanh nghiệp thông qua nhiều thiết bị cá nhân hơn mà không được quản lý tạo ra điểm mù cho các bộ phận bảo mật. Hơn một nửa số người tham gia khảo sát tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cho rằng máy tính xách tay hoặc máy tính để bàn tại văn phòng (58%) và thiết bị cá nhân (57%) là các điểm cuối cần bảo vệ trong môi trường làm việc từ xa, tiếp theo là các ứng dụng đám mây (52%). Các số liệu tại Việt Nam cho thấy 65% doanh nghiệp cho rằng thiết bị cá nhân đặt ra thách thức cần bảo vệ trong môi trường làm việc từ xa, tiếp theo là thông tin khách hàng (61%), máy tính xách tay hoặc máy tính để bàn tại văn phòng (60%) và các ứng dụng đám mây (59%).
Trong bối cảnh đó, an ninh mạng trở thành ưu tiên hàng đầu của các tổ chức, doanh nghiệp với mức độ quan trọng được nâng cao hơn so với thời điểm trước dịch COVID-19. 85% các doanh nghiệp tại Châu Á – Thái Bình Dương và 93% doanh nghiệp tại Việt Nam đồng ý với quan điểm này.
Trong thời kỳ COVID, 97% số doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương và 100% doanh nghiệp Việt Nam đã có những thay đổi trong chính sách an ninh mạng nhằm hỗ trợ làm việc từ xa.
Cùng đó, 70% doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương và 78% doanh nghiệp Việt Nam tin rằng dịch COVID-19 sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu tư vào an ninh mạng trong tương lai. Kết quả này cho thấy ngành bảo mật có cơ hội thay đổi cơ bản nhằm đáp ứng nhu cầu tại thời điểm này và tăng tính linh hoạt nhằm biến bảo mật thành yếu tố hỗ trợ thúc đẩy thay vì cản trở cộng tác cho lực lượng lao động bị phân tán.
Dù hầu hết các tổ chức đang ưu tiên đặt an ninh mạng là một trong các chương trình nghị sự chính, công tác đào tạo, nâng cao an ninh bảo mật nhưng vẫn đảm bảo tính đơn giản, dễ sử dụng và các giải pháp có thể hoạt động cùng nhau vẫn là điều cần thiết. 61% doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương cho biết việc thiếu đào tạo và nâng cao nhận thức cho nhân viên là một thách thức lớn khi phải củng cố các giao thức an ninh mạng phục vụ cho làm việc từ xa, tiếp theo là có quá nhiều công cụ, giải pháp cho việc quản lý và chuyển đổi (53%). Còn tại Việt Nam, số liệu lần lượt là 62% và 74%.
Do đó, tầm quan trọng của việc xây dựng nền tảng vững chắc hơn cho an ninh mạng là thực hiện tốt hơn công việc đào tạo và nâng cao nhận thức của nhân viên.
Theo đại diện Cisco, các tổ chức, cần bảo mật tốt hơn – chứ không đơn thuần là "nhiều hơn". Ngoài ra, họ cần xem xét lại chiến lược an ninh mạng với trọng tâm là thế trận phòng thủ an ninh mạng tổng thể – bao gồm bảo vệ khỏi mối đe dọa, đánh giá rủi ro, kiểm toán, tuân thủ và quyền riêng tư... – là khoản đầu tư được ưu tiên hàng đầu về tầm quan trọng trong việc chuẩn bị môi trường làm việc sau dịch COVID-19. Các khoản đầu tư ưu tiên khác được các tổ chức, doanh nghiệp tham gia khảo sát đề cập đến bao gồm: truy cập mạng, bảo mật đám mây, xác minh người dùng và thiết bị.
Bà Lương Thị Lệ Thủy – Tổng Giám đốc Cisco Việt Nam chia sẻ: “Làm việc từ xa đã trở thành xu hướng tất yếu kể từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra. Điều này tạo ra thách thức chiến lược cho các tổ chức, doanh nghiệp khi triển khai phương thức làm việc linh hoạt hay kết hợp trong tương lai. Cisco cung cấp các giải pháp và công nghệ giúp người dùng có thể tương tác, họp trực tuyến, kết nối xuyên suốt cho phép làm việc từ xa an toàn mà vẫn đảm bảo các trải nghiệm làm việc thông minh theo xu hướng linh hoạt và kết hợp.”
Nghiên cứu có sự tham gia của gần 3.200 tổ chức trên toàn cầu theo nhiều quy mô, như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (từ 1 đến 249 nhân viên), doanh nghiệp có từ 250 đến dưới 1.000 nhân viên, cũng như các doanh nghiệp lớn (trên 1.000 nhân viên), tại 21 thị trường trên khắp thế giới bao gồm Châu Mỹ, Châu Á Thái Bình Dương và Châu Âu, tiến hành khảo sát những lãnh đạo công nghệ thông tin (CNTT) của 30 ngành nghề. |