Tắt sóng 2G - Bước đi tất yếu
Nhiều năm qua, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển di động tăng nhanh nhất thế giới. Việt Nam hiện đang có khoảng 132 triệu thuê bao di động, bao gồm cả thuê bao 2G, 3G và 4G. Trong đó, theo thống kê của Bộ TT&TT, thuê bao di động băng rộng 3G và 4G hiện chiếm khoảng 50%; và 50% còn lại là công nghệ 2G. Thời gian qua, Bộ TT&TT đã bắt tay vào việc xây dựng chính sách để sớm công bố lộ trình tắt sóng công nghệ 2G, chuyển sang công nghệ băng rộng 3G, 4G. Việc tắt sóng 2G được xem là để giải phóng bằng tần cho phát triển 4G và xa hơn nữa là 5G.
2G là thế hệ mạng di động thứ 2, cơ bản và nền tảng của công nghệ viễn thông di động, kể từ khả đời từ năm 1991 đến nay. Tuy nhiên, theo lộ trình phát triển công nghệ viễn thông (từ 2G lên 2,5 - 2,75G, rồi 3G, 4G và 5G), sự phổ biến, giá rẻ của thiết bị đầu cuối, điện thoại thông minh, nhiều quốc gia đã từng bước tắt sóng 2G, hoặc công bố lộ trình tắt sóng 2G trong vài năm tới, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ, Australia, Mexico, Ấn Độ, Hà Lan, Thụy Sĩ,… Đây được xem là bước tiến không thể thay đổi về mặt công nghệ, như điện thoại di động đã “đè bẹp” điện thoại cố định trước đây.
Vấn đề đặt ra là lộ trình tắt sóng như thế nào, bởi khác quốc gia phát triển, đa số người dùng dịch vụ 2G ở Việt Nam hiện nay là người có thu nhập thấp. Nếu tắt sóng 2G ngay lúc này, ngay lập tức 50% thuê bao di động Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Vì vậy, Bộ TT-TT cần sớm công bố lộ trình tắt sóng 2G để tất cả cùng biết và chuẩn bị. Theo đó, năm 2020 công bố lộ trình và đến khoảng 2023 – 2025 chính thức tắt hoàn toàn sóng 2G là một lộ trình phù hợp để cả các nhà mạng và người dân sử dụng dịch vụ chuẩn bị chuyển đổi, không gây xáo trộn hay sự cố lớn. Trong thời gian đó, các nhà mạng sẽ ngừng đầu tư mới cho 2G, nâng cấp chất lượng và vùng phủ sóng 3G, 4G, đồng thời điều chỉnh giá cước xuống mức phù hợp cho đa số người dùng 2G chuyển lên. Các nhà mạng có thể nghiên cứu chính sách trợ giá, giúp người dân thu nhập thấp dễ dàng sở hữu các điện thoại sử dụng sóng 3G, 4G. Phải làm được các việc đó, thì việc ngừng tắt sóng 2G mới nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của tất cả các bên liên quan.
5G sẽ “chạm” vào ai trước nhất?
Với 5G, thế hệ mạng di động thứ 5, Việt Nam đang xây dựng kế hoạch, sẽ triển khai công nghệ 5G trong thời gian tới. Đến nay, mạng Viettel đã triển khai thử nghiệm mạng 5G tại Việt Nam và đã đạt được những kết quả bước đầu. Theo kế hoạch, đến hết 2019, VNPT/VinaPhone và MobiFone cũng sẽ phát sóng thử nghiệm 5G. Nếu năm 2020, các quy chuẩn về mạng 5G được công bố, thì năm 2021 - 2022, Việt Nam sẽ triển khai thương mại hóa mạng 5G. Theo các chuyên gia, cùng với hệ thống cáp quang, mạng 5G trong tương lại chính là hệ thống “mạch máu” truyền dẫn của mọi dịch vụ công nghệ cao. So với 3G và 4G, 5G là một phương mới, sử dụng các công nghệ mới để truyền tải toàn bộ năng lực của mạng truyền dẫn đến các người dùng di động. 5G hướng đến việc thu và truyền dẫn khối lượng rất lớn các thông tin qua mạng không dây như: kết nối hệ thống các thiết bị IoT ở tất cả mọi nơi; kết nối ô tô tự lái; điều hành robot hoạt động theo thời gian thực; phủ sóng wifi cực mạnh tới những nơi không thể triển khai cáp quang; truyền tải dữ liệu lớn theo thời gian thực;…
Một điều khách quan, người dân Việt Nam sẽ không thay thế các điện thoại 3G, 4G lên 5G “trong một đêm” mà sẽ cần thời gian lâu hơn. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các hãng sản xuất điện thoại di động trên thế giới đều chưa thật mặn mà với 5G. Đến nay chỉ có một số ít hãng gồm Samsung, Oppo và Huawei là đang sản xuất “thăm dò” với số lượng rất ít những chiếc điện thoại 5G. Nói cách khác, 5G không phải như 3G và 4G, chủ yếu dùng cho kết nối dữ liệu điện thoại thông minh. Thay vào đó, 5G sẽ được ứng dụng đầu tiên ở mảng doanh nghiệp. 5G tại Việt Nam sẽ được triển khai đầu tiên ở các cơ sở hạ tầng, nhà máy, doanh nghiệp. 5G là công nghệ kết nối bắt buộc để hỗ trợ phát triển cho các ngành công nghiệp cho tương lai. 5G cũng sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy quá trình số hóa của các doanh nghiệp và đem tới những lợi ích đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo nghiên cứu mới nhất của Cisco Việt Nam, việc sớm triển khai các dịch vụ 5G có thể giúp gia tăng doanh thu hàng năm của các mạng viễn thông Việt Nam hơn 300 triệu USD bắt đầu từ 2025. Tuy nhiên, các nhà mạng cũng cần phải đầu tư rất lớn, khoảng 1,5 - 2,5 tỷ USD cho 5G trong giai đoạn 2020 – 2025. Đầu tư lớn, nhưng nếu có sự chuẩn bị sớm, Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động, đi trước và thành công như đã từng làm với 2G trước đây. Đến thời điểm nay, lãnh đạo Chính phủ, Bộ TT-TT cùng các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đều xác định sẽ không đi chậm trong quá trình phát triển 5G so với các nước trên thế giới. Từ 2G lên 5G, chắc sẽ còn không xa ở Việt Nam.
Theo Cục Viễn thông (Bộ TT&TT), nhu cầu với hạ tầng viễn thông giai đoạn tới rất cao, đặc biệt để phát triển mạng 5G và các hạ tầng số. Cục đã đề xuất 4 nhóm giải pháp cần thực hiện để thúc đẩy phát triển hạ tầng, dịch vụ viễn thông. Trong đó có việc đề nghị cấp tần số để nâng cao dung lượng cho mạng 4G thông qua đấu giá băng tần 2,6GHz, 700MHz; Giải phóng các băng tần có thể sử dụng cho 4G, 5G trong tương lai; Nhanh chóng nâng chất lượng dịch vụ lên ngang tầm thế giới, nâng cao 38 thứ hạng. |