Khi điền địa chỉ Việt Nam vào website đăng ký, người dùng sẽ thấy thông báo "Starlink đặt mục tiêu phủ sóng khu vực của bạn vào năm 2022".
Băng thông rộng vệ tinh
Băng thông rộng vệ tinh chính xác như mặt ngữ nghĩa: Truy cập internet băng thông rộng được cung cấp qua vệ tinh. Ý tưởng cơ bản không thay đổi nhiều kể từ thời kỳ hoàng kim của truyền hình vệ tinh vào cuối những năm 90 khi các công ty truyền kết nối internet đến cùng một thiết bị nhận tín hiệu HBO của bạn ở tốc độ nhanh hơn quay số nhưng vẫn chậm hơn băng thông rộng ngày nay.
Vào năm 2020, có hai cách chính mà các công ty cung cấp băng thông rộng qua vệ tinh. Sự khác biệt chính giữa chúng là độ cao của quỹ đạo vệ tinh. Vệ tinh địa tĩnh, mà quỹ đạo khoảng 22.000 dặm (35,405km) cách bề mặt Trái đất, là một công nghệ cũ mà các công ty như Viasat sử dụng cho các kết nối băng thông rộng.
Sau đó, chòm sao quỹ đạo thấp của Trái đất (viết tắt là LEO - Low Earth Orbit), nằm cách mặt đất khoảng 550km, được tạo thành từ hàng trăm, nếu không nói là hàng nghìn vệ tinh nhỏ. Đây là cách tiếp cận đang nhận được tất cả sự chú ý gần đây và là cách mà SpaceX và Amazon đang thực hiện.
Các kế hoạch của SpaceX đã hoàn thành nhanh chóng. Hàng nghìn vệ tinh cỡ nhỏ trong dự án chòm sao Starlink được phóng lên quỹ đạo thấp của Trái Đất (viết tắt là LEO - Low Earth Orbit), nằm cách mặt đất 550km. Với sự không giới hạn của internet vệ tinh, người dân ở vùng đồi núi, hải đảo, địa hình khó khăn phức tạp… vẫn có thể truy cập mạng một cách đơn giản.
Vào đầu tháng 3/2020, chỉ vài ngày trước khi các thành phố trên khắp nước Mỹ lại đóng cửa vì đại dịch, Elon Musk đã chia sẻ những thông tin chi tiết mới nhất về kế hoạch xây dựng một dịch vụ băng thông rộng vệ tinh có tên Starlink. Phát biểu tại một hội nghị vệ tinh ở Washington, DC, Musk đã mô tả cách một chòm sao vệ tinh Starlink sẽ "nhấp nháy" khi chúng đi vào quỹ đạo Trái đất thấp. Theo mô tả, chúng gần giống như những vệt sáng lấp lánh trên bầu trời đêm, hoặc những dải ma thuật của các thiết bị bay có thể truyền internet tới bất kỳ ai trên hành tinh.
Kết hợp với những cải tiến công nghệ hiện có như cáp và cáp quang - chưa kể đến mạng di động 4G và 5G - băng thông rộng vệ tinh trong tương lai sẽ tạo cầu nối cho khoảng cách kỹ thuật số ở Hoa Kỳ và các nơi khác.
Băng thông rộng vệ tinh cũng có thể mang lại rất nhiều lợi nhuận cho bất kỳ công ty nào tìm ra nó trước. Người ta có thể tưởng tượng Amazon sử dụng băng thông rộng vệ tinh để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Amazon Web Services (AWS) hoặc Facebook sử dụng nó để đảm bảo rằng nhiều người hơn có thể tiếp cận trên nền tảng của họ. Và nếu Musk làm theo cách của mình, các chòm sao Starlink sẽ tạo ra hàng tỷ đô la lợi nhuận để tài trợ cho sứ mệnh chiếm giữ sao Hỏa của anh ấy.
Vấn đề với kỳ công công nghệ này là tất cả đều rất đắt. Có thể tốn hàng trăm triệu đô la để phóng vệ tinh vào không gian và điều đó thậm chí còn chưa tính đến những gì cần thiết để vượt qua các rào cản pháp lý.
Thương mại hóa internet vệ tinh không khoảng cách
SpaceX của Elon Musk mới bắt đầu thương mại hóa dịch vụ internet dựa trên vệ tinh Starlink của mình và mặc dù ban đầu nó sẽ chỉ có sẵn sàng cung cấp dịch vụ ở miền Bắc Hoa Kỳ và Canada. Nhưng mục tiêu cuối cùng của dự án, con số vệ tinh Starlink sẽ lên đến hàng chục nghìn vệ tinh nhằm cung cấp dịch vụ internet không khoảng cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
Vệ tinh mới của Musk đã bắt đầu trực tuyến vào đầu tháng 9/2020, mang đến cho người thử nghiệm tốc độ tải xuống ngang bằng với tốc độ tải xuống của băng thông rộng trên mặt đất. SpaceX hiện đã đưa 700 vệ tinh Starlink lên quỹ đạo trong nhiều tháng qua và có kế hoạch cung cấp thêm 30.000 vệ tinh trong vài năm tới. Nhiều vệ tinh hơn có nghĩa là nhiều băng thông hơn và tốc độ nhanh hơn, và cuối cùng, SpaceX cho biết, các chòm sao vệ tinh quỹ đạo Trái đất thấp của họ có thể cung cấp internet tốc độ cao cho toàn bộ nước Mỹ. Amazon, Facebook và một số công ty khởi nghiệp cũng đã đưa ra những lời hứa tương tự trong những năm gần đây.
Hệ thống đang được thử nghiệm mở rộng phiên bản beta cho các khả năng cuối cùng của Starlink. Nhưng ít nhất thoạt tiên, một số khách hàng đang sử dụng dịch vụ internet của Starlink cho biết anh ta đang nhận được tốc độ truyền internet tốt hơn mong đợi. Khách hàng của Starlink “4thEchelon19” đang nhận được 161Mbps tải xuống và 23Mbps ở tốc độ tải lên. Điều đó đủ mượt để phát video 4K trên YouTube mà không bị giật. Và nó đang khiến những người sử dụng mạng không dây “tốc độ cao” phải ghen tị. Một người trả lời trên Reddit cho biết: “Tôi thích cách bạn nhận được tốc độ tốt hơn nhờ internet vệ tinh so với tôi đang sử dụng kết nối cứng từ Spectrum với giá 80USD/tháng”.
Ngành viễn thông Việt Nam cạnh tranh với xu hướng internet vệ tinh
Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, sự xuất hiện của SpaceX sẽ càng tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt của các DN viễn thông hiện nay. Vấn đề là Việt Nam chưa có những căn cứ pháp lý để quản lý vấn đề an ninh mạng đối với nhà cung cấp ngoài nước. Do vậy, thời gian tới sẽ phải tính đến các khung pháp lý để quản lý an toàn thông tin mạng, tránh những thông tin xấu, tiêu cực, ảnh hưởng đến an ninh kinh tế - xã hội.
Theo các chuyên gia, nhiều quốc gia hiện đã cho phép Starlink hoạt động nhưng Trung Quốc và Nga sẽ yêu cầu dịch vụ này phải tuân theo những quy chế đặc biệt khi phát sóng trên các tần số của mình. Một số quốc gia cấm hẳn việc mua bán và sử dụng các thiết bị tiếp nhận Starlink gắn trên mặt đất. Ở Việt Nam, để quản lý được internet vệ tinh, cần sớm có các chế tài quy định phù hợp.
Hiện nay, internet của Việt Nam cũng đã phủ sóng rộng khắp ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, tuy nhiên chưa thể linh động được như internet vệ tinh. Starlink có nhanh hơn cáp quang không tùy thuộc vào nhà cung cấp. Điểm quan trọng để cạnh tranh ở đây là mức phí mà nhà cung cấp internet vệ tinh đưa ra, nếu nó quá cao cũng khó thu hút người dùng.
SpaceX, Amazon và nhiều ông lớn khác đang có kế hoạch đưa hàng nghìn vệ tinh vào quỹ đạo thấp của Trái đất để cung cấp internet băng thông rộng. Các dự án chòm sao vệ tinh internet được đề xuất có nhiều hứa hẹn, nhưng cũng đưa ra những thách thức mới đối với mạng lưới kết nối internet.